Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (từ 25-1-2021 đến 2-2-2021):
Phụ nữ được tiếp cận, thụ hưởng đầy đủ các chính sách an sinh là nền tảng phúc lợi xã hội
Với vai trò là tổ chức đại diện, chăm lo bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tổ chức phụ nữ, đồng chí Hà Thị Nga, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam đã nêu một số đề xuất, kiến nghị để phụ nữ được hỗ trợ, tiếp cận, thụ hưởng chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Cần tiếp tục coi trọng vấn đề nhà ở là phúc lợi của người dân
Đề xuất đầu tiên, đồng chí Hà Thị Nga mong muốn đảm bảo an sinh xã hội về nhà ở đối với lực lượng lao động nữ di cư. Di cư lao động là xu hướng tất yếu hiện nay, gắn với phát triển và có vai trò nhất định đối với kinh tế - xã hội, nhất là trong việc phân bổ lại nguồn lực lao động quốc gia.
Tuy nhiên, từ góc độ an sinh xã hội, đang đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt đối với những lao động di cư từ nông thôn ra thành thị. Đặc biệt, với những người lao động di cư, nhà ở là vấn đề hết sức bức thiết.
Để đảm bảo quyền có nơi ở, chỗ ở cho mọi người dân, Nhà nước cần tiếp tục coi trọng vấn đề nhà ở là phúc lợi của người dân để có chính sách đầu tư thỏa đáng, từng bước giải quyết về vấn đề nhà ở cho người dân, trong đó có lực lượng lao động di cư.
Đồng thời tạo cơ hội tiếp cận dịch vụ công về giáo dục, y tế cho con em và gia đình phụ nữ khó khăn, lao động nữ di cư.
Về mặt nhận thức, phải coi di cư lao động là vấn đề phát triển, các chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, địa phương cần tính tới dân số di cư để có thể đảm bảo các chính sách cho phù hợp.
Tiếp đến, cần đảm bảo an sinh xã hội cho phụ nữ khi mang thai, sinh con. Việt Nam được LHQ đánh giá hoàn thành sớm hơn 10 năm trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt tỷ lệ bao phủ gần 89% dân số; 100% người nghèo, người DTTS có thẻ khám chữa bệnh miễn phí; mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, phát triển.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), chế độ thai sản của Việt Nam nằm trong số những nước có tỷ lệ hưởng cao và thời gian nghỉ dài nhất trong khu vực, quyền lợi tương đối rộng. Đặc biệt, trong số hơn 65% dân cư nước ta sống ở nông thôn, trong đó khoảng 48,5% là lao động nữ.
Họ có mặt ở hầu hết các công việc của quá trình sản xuất, chế biến, kể cả những công việc nặng nhọc và độc hại... ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài tới sức khoẻ, nhất là sức khoẻ sinh sản nhưng họ hầu như chưa được hưởng hoặc hưởng chưa đầy đủ các chế độ thai sản.
“Hội LHPN Việt Nam trân trọng đề nghị Chính phủ trong thời gian tới cần đánh giá việc triển khai thực hiện Nghị định 39 để có hướng mở rộng đối tượng thụ hưởng, giúp mọi phụ nữ sinh con đúng chính sách dân số đều được hưởng sự hỗ trợ của Nhà nước…”- đồng chí Hà Thị Nga nêu.
![]() |
Đồng chí Hà Thị Nga, Chủ tịch Hội LHPN VIệt Nam. |
Đảm bảo an sinh xã hội cho phụ nữ nuôi con nhỏ, trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ là một vấn đề bức thiết. Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, hiện nay chỉ có 28% trẻ em trong nhóm trẻ dưới 36 tháng tuổi đến trường, nguyên nhân có nhiều, trong đó không có nơi để gửi con là một trong những nguyên nhân chủ yếu.
Ở những nơi có khu công nghiệp, khu chế xuất đông lao động nhập cư, hệ thống trường mầm non chỉ đáp ứng 44,4% nhu cầu. Hơn một nửa số trẻ trong độ tuổi được gửi vào các nhóm lớp tư thục. Ðiều đáng nói là các cơ sở thuộc loại hình này còn rất nhiều nhược điểm và tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn cho trẻ.
Từ năm 2015, Hội LHPN Việt Nam đã đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Hỗ trợ, phát triển nhóm trẻ độc lập, tư thục ở khu công nghiệp, khu chế xuất đến 2020". Tuy nhiên, cũng chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu chính đáng của nữ công nhân lao động có con dưới 36 tháng tuổi.
Không chỉ ở các khu công nghiệp, không chỉ đối với các gia đình di cư lao động, việc gửi con trẻ ở đâu, nhất là trẻ dưới 36 tháng tuổi còn là mối quan tâm chung của rất nhiều gia đình công chức, viên chức ở thành thị... Bởi vậy, Đảng, Nhà nước cần quan tâm thỏa đáng hơn nữa đến vấn đề này.
Bảo đảm cho nữ có cơ hội lựa chọn ngành nghề đúng với năng lực, sở trường
Đảm bảo an sinh xã hội tạo cơ hội có việc làm cho phụ nữ là vấn đề tiếp theo. Theo Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, chiếm tỷ lệ trên 50,23% dân số, phụ nữ là nguồn nhân lực quan trọng của đất nước.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ trong độ tuổi lao động lên đến hơn 66%, cao hơn hẳn so với phần lớn các quốc gia trên thế giới.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra nhiều cơ hội song cũng tạo ra nhiều thách thức cho lao động nữ Việt Nam. Theo báo cáo năm 2019, còn khoảng 79,5% lao động nữ trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo.
Đây là nhóm yếu thế trên thị trường lao động, với tỷ lệ thất nghiệp cao, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp. Những vấn đề đó đã tác động rất nhiều đến cuộc sống gia đình, cơ hội phát triển nghề nghiệp đối với lao động nữ.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương, chính sách để đảm bảo nghề cho lao động nói chung, lao động nữ nói riêng qua các chương trình, đề án. Tuy nhiên, các đề án này có thời gian đào tạo ngắn, chủ yếu đào tạo trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng, nội dung đào tạo tập trung vào một số lĩnh vực, ngành nghề mang tính giản đơn, chưa tạo ra thay đổi căn bản để người lao động thích ứng với tình hình mới.
Do vậy, để giúp lao động nữ có cơ hội việc làm, Nhà nước cần đảm bảo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng và thực thi các chính sách đào tạo nghề, có chính sách đào tạo nghề riêng cho phụ nữ, có các chính sách cho phụ nữ, bảo đảm cho nữ có cơ hội lựa chọn ngành nghề đúng với năng lực, sở trường.
“Qua nghiên cứu và từ những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, thay mặt cho phụ nữ cả nước, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trân trọng đề nghị Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm chỉ đạo các ngành chức năng nghiên cứu để hoàn thiện các chính sách có lồng ghép giới theo quy định của Luật Bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ nói chung, đặc biệt là phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ, phụ nữ nông thôn, phụ nữ di cư, phụ nữ dân tộc thiểu số có cơ hội được tiếp cận, thụ hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã hội. Đặc biệt, cần coi đây là nền tảng phúc lợi, là ưu việt mà chế độ xã hội chủ nghĩa mang lại cho mỗi người dân để từng bước quan tâm giải quyết.
Về phần mình, Hội LHPN Việt Nam biểu thị sự quyết tâm và tiếp tục nỗ lực phối hợp các bộ, ngành chức năng cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước, xây dựng, thực hiện các đề án, chương trình, các chính sách an sinh xã hội liên quan đến phụ nữ, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đề ra…”- Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam nhấn mạnh.
Linh Anh